Friday, February 13, 2009

Vài giai thoại - câu đối - câu đố - nói lái

· Chúng ta cũng thường nghe nói đến câu tiếng lóng hạ cờ tâyhạ cầy tơ của dân nhậu miền Nam và mộc tồn (= cây còn, nói lái thành con cầy) ở miền Bắc, hay những lối nói lái rất quen thuộc: con chín bến đò (con chó bến đình), Hương bên đèo (heo bên đường) ... Về câu đối, xin trở lại câu ca dao trên:

Con cá đối nằm trên cối đá.
Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo.
Anh mà đối đặng dẫu nghèo em cũng ưng.

được đối là:

Chim mỏ kiến(g) nằm trong miếng cỏ
Chim vàng lông đáp đậu vồng lang
Anh đà đối đặng hỏi nàng ưng chưa?

Một câu khác, nghe chừng như xuông miệng nói chơi, nhưng lại đối rất chỉnh, trong cả hai vế đều dùng cách nói lái:

Kia mấy cây mía
Có vài cái vò


Một câu đối khác, nghe được sau 75, lúc người dân miền Nam sinh sống khó khăn, đặc biệt là giới thầy cô thuộc chế độ cũ được lưu dụng. Người ta nghe thấy hai câu đối tết, nhại theo Tú Xương ngày trước, nhưng rất đặc sắc và chua xót:

Chiều ba mươi, thày giáo tháo giày ra chợ bán
Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang.

· Từ cổ chí kim đã có nhiều câu đối chỉ có vế ra, nổi tiếng đã lâu, mà cho đến nay vẫn chưa có vế đáp, như các câu sau:

* “Da trắng vỗ bì bạch

* “Cô gái Quần Lạc đi chợ Lạc Quần, bán lạc mua quần, trở về Quần Lạc
(Quần Lạc và Lạc Quần là hai địa danh có thật thuộc tỉnh Nam Định.)

* “Vợ cả, vợ hai, cả hai đều là vợ cả!”
(vừa có ý: “vợ cả vợ hai cũng là vợ”; lại vừa có ý: “vợ cả hay vợ hai chỉ là cách gọi thôi, chứ thực ... đếu là vợ cả hết”. )

· Trong văn chương bình dân Việt Nam, câu đố chiếm một vị trí tuy khiêm nhường nhưng có sức sống tuơng đối mạnh mẽ so với hò đối đáp chẳng hạn. Ngày nay ta vẫn thường nghe những câu đố trong khi không còn thấy hò đối đáp trong sinh hoạt hàng ngày của người bình dân. Sau đây là vài câu đố dùng nói lái, lời giải có ngay trong câu đố:

* Tổ kiến, kiển tố, đố là chi? (tổ kiến)

* Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai.
Bò la, bò liệt đố ai biết gì? (khoai lang).
(Những chữ mũi, lái, khứ, lai chỉ cốt để đánh lừa người bị đố.)

* Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng. (ngón chưn cái)

Nói lái

Nói lái là trò chơi chữ dân gian quen thuộc của người Việt Nam. Từ Bắc chí Nam, không mấy ai không hiểu cách nói đầu tiêntiền đâu, hiện đạihại điện... Theo ý kiến của nhiều người, vùng Nghệ Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh) trò chơi này được "phổ cập toàn dân" và là nơi có nhiều người khá "sành nghề". Chúng ta biết rằng, cách nói lái của người miền Bắc khác miền Trung và miền Nam, nhưng đã là người sành nói lái thì thành thạo cách sử dụng của mọi miền, hơn nữa họ còn biết thêm các trò hoán vị chữ và dấu khi cần thiết để diễn đạt được nội dung theo ý muốn. Thí dụ hai chữ Đèo Ngang, người miền Bắc lái là ngàng đeo, người miền Trung lái là đàng ngheo, nhưng họ liền hoán vị dấu để có được đang nghèo!

Nói lái là một hình thức vô cùng độc đáo của ngôn ngữ Việt. Khi nói lái, người ta tránh không nói thẳng chữ muốn nói; mà người nghe, vì không tinh ý, nhất thời không nhận ra. Đi sâu hơn vào chi tiết: một chữ gồm hai phần: phụ âm và âm. Chữ tranh chẳng hạn gồm phụ âm tr và âm anh. Chúng ta lại có thêm sáu thanh: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng và không dấu tạo tiếng Việt thành giàu âm sắc, chỉ cần khác dấu, chữ được phát âm khác nhau: tranh, tránh, trành (trong tròng trành), trạnh (trạnh lòng) và tất nhiên có nghĩa khác nhau. Cũng có chữ không có phụ âm mà chỉ có âm, như trong ễnh ương hay ảo ảnh...

1. Nói lái theo cách ngoài Bắc

· Câu chuyện đại phong: Đại phonggió lớn, gió lớn thì chùa đổ, chùa đổ thì tượng (Phật) lo, tượng lo là lọ tương. Người miền Bắc đổi chỗ cho hai chữ, đồng thời đổi luôn hai dấu (nghĩa là đổi âm sắc): lo đổi chỗ cho tượng, lấy dấu nặng thành lọ, tượng đổi chỗ cho lo, mất dấu nặng thành tương.

· Vài thí dụ khác: đấu tranh nói lái lại là tránh đâu: tranh đổi chỗ cho đấu, lấy dấu sắc của đấu thành tránh, đấu đổi chỗ cho tranh, mang dấu của tranh (không dấu) thành đâu. Hải Phòng nói lái lại là phỏng hài: hải đổi chỗ cho phòng lấy dấu huyền của phòng thành hài, phòng đổi chỗ cho hải lấy dấu hỏi của hải thành phỏng. Cứ theo cách ấy thì Hà Nộinồi hạ, ...

· Như vậy thì hai chữ có cùng dấu không nói lái được, như anh em, Sài Gòn, thánh thót, thực vật.... Cũng vậy, những tiếng láy như xanh xanh, hơ hớ, đo đỏ, lăng xăng.... không thể nói lái được và nếu chúng ta cố tình theo qui luật trên thì cũng chỉ đổi vị trí cho nhau thôi.

2. Nói lái theo kiểu trong Nam

· Trong Nam người ta nói lái theo cách khác: cá đối nói lái lại thành cối đá. Ta nhận thấy theo cách nói lái trong nam, âm trong hai chữ đổi chỗ cho nhau, phụ âm giữ nguyên vị trí, phụ âm c ghép với âm ối của đối thành cối, và phụ âm đ ghép với âm á thành đá. Như vậy, Sài-gònsòn gài; Cần Thơ nói lái là cờ thân; cầy tơcờ tây; Cửu Longcỏng lưu (dân nam kỳ phát âm giống như cỏng lu); Thủ Đứcthức đủ, ...

· Bút hiệu Thế Lữ (trong Tự Lực Văn Đoàn) chính là chữ nói lái của tên thật của ông: Nguyễn Thứ Lễ. Ngày trước đã có vế đối: Ngày Tết, Thế Lữ đi hai thứ lễ: lê ta và lê tây.

· Trong vài trường hợp người ta nói lái cho cả ba chữ, bằng cách giữ nguyên chữ giữa như trong trường hợp mèo đuôi cụt thành mút đuôi kèo (dấu nặng trong cụt biến thể thành dấu sắc trong mút), như vậy hà thủ ô nói lái thành hồ thủ a. Đôi khi người ta lại đổi chỗ hai phụ âm cho nhau (tuy ít thôi) để sau khi nói lái có nghĩa và dễ nghe hơn, thí dụ chiến binh thay vì nói lái thành chinh biến cũng có thể nói thành biến chinh, do đó với hai chữ tranh đấu có người đã đùa mà nói rằng: “tranh đấu thì tránh đâu khỏi bị trâu đánh thì thế nào cũng phải đấu tranh”. Cũng như trong trường hợp trên, những chữ trùng âm như nhân dân, lù đù, lật đật ... không nói lái được.

Câu đố

Câu đố thường là những câu ca dao ngắn gọn, hoặc những câu ám chỉ con vật hay những vật dụng…

Năm anh cầm hai cây sào,
Sáu bảy miếng thịt chui vào trong hang.

Một cây mà có năm cành
Rấp nước thì héo, để dành thì tươi.

Chẳng học mà thật là hay
Một trăm thứ chữ, viết ngay được liền.

Có càng mà chẳng có chân
Có hai con mắt to bằng ốc bưu.

Xanh xanh, đỏ đỏ, tím tím, vàng vàng
Bắc cầu thiên lý nằm ngang giữa đồng.

Cái gì mà thuộc của mình
Mình lại ít dùng, thiên hạ dùng luôn.

Như rắn mà chẳng cắn ai
Thích bò lên cổ lên vai khách hàng.
Chủ nhân cho rắn bò ngang
Rồi lại bò dọc, hỏi han tận tình.

Bánh gì ăn không đặng no?

Bánh gì giống nhau như hệt?

Cái gì đi nằm, đứng nằm, ngồi nằm, nằm thì đứng?
Cái gì đi thì đứng, đứng thì ngã?
(Bàn tay, bàn tay, cây bút, kiếng đeo mắt, cầu vồng, tên của mình, thước đo vải, bánh ít, bánh in, cái chân, xe đạp)

Câu đối

Câu đối là một dạng văn chương ngắn nhất, chỉ gồm có hai câu, mỗi câu ba hay bốn từ cũng đủ, câu được gọi là dài vào khoảng 15, 16 từ, số từ trong một câu không quy định là bao nhiêu. Có hai loại câu đối: câu đối tiếng Hán và câu đối bằng tiếng Việt Nam hay thường gọi là câu đối Nôm. Câu đối được dạy cho học trò còn ít tuổi và được dùng trong nhiều trường hợp như chúc mừng tân gia, chúc mừng thượng thọ, phúng điếu trong tang lễ, treo trong chỗ thờ cúng tôn nghiêm như nhà thờ, đình chùa … Câu đối còn được dùng trong sinh hoạt văn chương như tuyển lựa thi cử, chọn bạn kết thân, tranh tài cao thấp …

Theo luật đối, câu đối gồm hai vế, vế ra gọi là vế xướng, vế đáp gọi là vế đối, do đó thường gọi là đôi câu đối. Số từ trong mỗi vế không nhất định, tùy ở người ra vế xướng. Luật chỉ cần đối thanh, đối ý và cùng một tự loại.

· Đối thanh là bằng trắc đối nhau, bằng gồm thanh không và thanh huyền, trắc gồm bốn thanh sắc, hỏi, ngã, và nặng.

· Đối ý là nội dung hai vế ứng với nhau, vế đối không được lạc đề.

· Cùng một tự loại là ưu điểm gọi là đối chỉnh, nếu không cùng một tự loại gọi là đối chưa chỉnh.

Hội đủ ba điều luật này gọi là đối vững. Tuy nhiên câu đối vững chưa gọi là câu đối hay. Để được gọi là hay, vế đối thường có những điều kiện riêng, càng phức tạp bao nhiêu thì vế đối càng khó tìm ra, và càng chứng tỏ tài văn chương lỗi lạc của người ứng đối.

Khoảng thập niên 1940-1950 tại các vùng quê học trò bắt đầu đi học vẫn còn học chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Học trò tập làm câu đối Nôm. Thí dụ:

- Ta ngồi đây đối với Nó đứng đó.

- Cụ già ho sù sụ đối với Con trẻ khóc hu hu.

- Thầy giáo yêu thương dạy bảo đối với Học trò kính cẩn vâng theo
Kể từ thời Pháp thuộc, chương trình giáo dục chịu ảnh hưởng của tây phương, câu đối không còn được học trong học đường. Việc làm câu đối trở thành một việc ngoài học đường và thi cử. Tuy vậy người Việt Nam yêu tiếng mẹ đẻ vẫn thích làm câu đối nôm, từ giới khoa bảng đến giới bình dân.

Song thất lục bát biến thể

Song thất lục bát biến thể thường tăng thêm số chữ ở câu ca dao cho phù hợp với làn hơi kéo dài khi cất tiếng hát, sự tăng số chữ rất linh động tùy theo từng điệu hát dân ca, tùy theo từng điệu hò tại mỗi địa phương.

Hò Huế:
À … ơ … ơ … ơ …
Bên chợ Đông Ba tiếng gà gáy sáng,
Bên làng Thọ Lộc tiếng trống sang canh,
Giữa sông Hương tiếng sóng khuynh thành,
Đêm khuya một chiếc thuyền tình ngửa nghiêng.

Hò miền Nam:
Hò … hò … lơ … ơ …
Đèn Sài-gòn ngọn xanh ngọn đỏ,
Đèn Mỹ-Tho ngọn tỏ ngọn lu,
Anh về anh học chữ nhu,
Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ.

Ru con miền Bắc:
Ạ … ơi … ạ … ời …
Con ơi con nằm yên mà ngủ,
Mẹ ru con ấp ủ trên tay.
Giờ đây con ngủ cho say,
Nửa mai khôn lớn cho tày người ta.
Bé là con mẹ con cha,
Lớn lên con của quốc gia sau này.

Ru con miền Nam:
Ầu ơ … ví dầu … ầu ơ …
Ví dầu cầu ván đóng đanh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi!
Khó đi … ầu ơ … mẹ dắt con đi,
Con đi trường học, mẹ đi trường đờI!


Dạng đặc biệt cả về hình thức lẫn nội dung:

Quả cau nho nhỏ,
Cái vỏ vân vân …
Nay anh học gần,
Mai anh học xa,
Em lấy anh từ thuở mười ba,
Đến khi mười tám thiếp đà năm con,
Ra đường người tưởng còn son,
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.

Song thất lục bát

Ca dao này tương đối ít hơn trường hợp theo thể lục bát, dạng chính thức gồm hai câu 7 chữ, kế đó câu 6 chữ và câu 8 chữ.

Trăng cành khuya, càng cao, càng tỏ,
Người thức lâu mới tỏ đêm dài,
Một lòng ai đã với ai,
Vàng mười đâu sợ lạt phai bao giờ!

Lục bát biến thể

Ca dao không tôn trọng số chữ ở mỗi câu, thường tăng lên nhiều hơn 6 ở câu trên và nhiều hơn 8 ở câu dưới.

Gỗ trắc mà đem lát ván cầu,
Yến sào mà đem nấu với đầu tôm khô!

Qua đình em ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói em thương mình bấy nhiêu!

Lục bát

Ca dao thường thấy nhiều nhất ở thể lục bát, câu 6 chữ rồi câu 8 chữ; nhiều câu theo thể lục bát chính thức có nội dung về luân lý, tâm lý, thói đời, quan sát sinh hoạt hàng ngày.

Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.

Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

Sông sâu còn có kẻ đo,
Lòng người nham hiểm ai dò được đâu!

Thức lâu mới biết đêm dài,
Ở lâu mới biết lòng người có nhân.

Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao,
Hợp quần lợi biết nhường nào,
Nếu mà đơn độc mong sao bằng người!

Nói lối

Nói lối là những bài đồng dao thường bao gồm những câu ngắn từ 4 chữ, 5 chữ đến 6 chữ sắp vào nhau cho có vần để trẻ con dễ nhớ, dễ hát. Đặc biệt là câu chót hát xong lại trở lại câu đầu, làm cho bài ca hát lên bao nhiêu lần liên tiếp cũng được.

Con vỏi con voi,
Cái vòi đi trước,
Hai chân trước đi truớc,
Hai chân sau đi sau,
Còn cái đuôi đi sau rốt.
Tôi xin kể nốt
Cái chuyện con voi:
Con vỏi con voi, …

Lạy trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cầy,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp, …

Ca dao

Ca dao là những bài hát ngắn được lưu truyền trong dân gian, không biết ai là tác giả . Ca là hát, dao là bài hát không thành chương khúc hẳn hoi.

· Ca dao được gọi là phong dao trong khi nói đến phong tục, tập quán, sinh hoạt, tín ngưỡng dị đoan của dân quê.

· Ca dao còn được gọi là đồng dao khi dành cho trẻ con ca hát lúc vui chơi.

· Nội dung vô cùng phong phú, hàm chứa mọi sinh hoạt của đại đa số người dân, từ câu hát của trẻ con đến lời ca về sinh hoạt của người lớn, từ lời ru con ngủ của người mẹ đến câu hò tình tứ của gái trai, từ lời ghi lại sự kiện lịch sử dân tộc đến câu diễn tả triết lý nhân sinh.

· Hình thức chú trọng đến vần điệu nhịp nhàng, và lời lẽ tự nhiên để dễ ca.

Ca dao được diễn tả ở ba thể loại nói lối, lục bátsong thất lục bát. Ngoài dạng chính thức thể lục bát, câu 6 chữ rồi câu 8 chữ, phải kể đến hai dạng biến thức gọi là lục bát biến thểsong thất lục bát biến thể. Hai dạng biến thức này không ấn định số chữ trong mỗi câu, do đó lời ca được tùy tiện dài ngắn để dễ phù hợp với tình ý nội dung câu ca.

Tục ngữ

Tục ngữ là những câu nói gọn ghẽ và có ý nghĩa, tự lâu đời truyền miệng trong dân gian, lâu dần ai nói cũng biết. Tục ngữ là danh từ tổng quát nói chung còn được gọi là ngạn ngữ, phương ngôn, và châm ngôn.

· Ngạn ngữ là câu nói do người xưa để lại; ngạn ngữ cũng được gọi là ngạn ngôn.

· Phương ngôn là câu nói được lưu hành tại một vùng, một địa phương, không được dùng đến ở khắp mọi nơi như trường hợp tục ngữ.

· Châm ngôn là câu nói có nội dung khuyên răn mọi người nên làm điều lành và tránh không làm điều xấu. Châm ngôn có giá trị nội dung cao, được coi như khuôn vàng thước ngọc để cho mọi người noi theo thì gọi là danh ngôn.

Tục ngữ có nội dung về sinh hoạt của người dân. Tục ngữ đã vẽ lại đầy đủ bức tranh cuộc sống, đủ mọi khía cạnh của người dân.

· Luân lý: lá lành đùm lá rách, một sự nhịn chín sự lành, kiến tha lâu cũng đầy tổ, kính lão đắc thọ, uống nước nhớ nguồn, …

· Lẽ đương nhiên: mạnh được yếu thua, đuợc làm vua thua làm giặc, …

· Tâm lý: yêu nên tốt ghét nên xấu, không ăn thì đạp đổ, …

· Giao thiệp xã giao: bánh ú đi bánh dì lại, có đi có lại mới toại lòng nhau, hay chào nên quen, chớ thấy sang bắt quàng làm họ, ...

· Phong tục tập quán: khách đến nhà chẳng gà thì vịt, khéo ăn thì no khéo co thì ấm, không sợ hẹp nhà chỉ sợ hẹp bụng, có bột mới gột nên hồ, mạnh vì gạo bạo vì tiền, …

. Thường thức: Trời nắng tốt dưa trời mưa tốt lúa, chớp đông nhay nháy gà gáy thì mưa, làm ruộng thì ra làm nhà thì tốn, nhân hiền tại mạo có trắng gạo thì mới ngon cơm …

Thành ngữ

Thành ngữ là những lời nói do nhiều tiếng góp lại có sẵn từ lâu, được lưu truyền trong dân gian. Nếu tục ngữ là những câu đã thành câu có đầy đủ ý nghĩa thì trái lại, thành ngữ chỉ là những từ ngữ chưa được ghép thành câu. Thành ngữ vẽ nên những bức tranh về cuộc sống của dân tộc, từ vật chất đến tâm linh, mô tả được thói đời một cách tinh vi cũng như thái độ thích ứng của người dân trước mọi hoàn cảnh, mọi cam go trong cuộc sinh tồn.

· Sinh hoạt kinh tế: chân lấm tay bùn, cày xâu cuốc bẫm, mò cua bắt ốc, khố rách áo ôm, cơm ba bát áo ba manh, ăn bữa sáng lo bữa tối, …

· Cảnh nghèo nàn: ăn no vác nặng, bới đất lật cỏ, cày thuê cuốc mướn.

· Thái độ thích ứng: thắt lưng buộc bụng, năng nhặt chặt bị, liệu cơm gắp mắm, bắt cá hai tay, chạy ngược chạy xuôi, …

· Thái độ tin tưởng: giấy trắng mực đen, ba mặt một lời, hai năm rõ mười, bụng làm dạ chịu, có phúc có phần, …

· Thói đời: ăn xổi ở thì, ăn ốc nói mò, vạch lá tìm sâu, nước đục thả câu, kén cá chọn canh, vơ đũa cả nắm, no cơm dửng mỡ, ông nói gà bà nói vịt, …

· So sánh: dai như giẻ rách, trơn như mỡ, tối như mực, sáng như gương, câm như hến, nhanh như tên, nhanh như cắt, chậm như rùa, dữ như cọp, khỏe như voi, khỏe như trâu, yếu như sên, cao như sếu, ngu như bò, ngang như cua, nhăn như khỉ ăn gừng, hôi như cú, xấu như ma, đẹp như tiên, lành như đất, lành như Bụt, …
. Màu sắc: đỏ như son, đỏ như lửa, đỏ như máu, xanh như tàu lá, xanh lá mạ, xanh da trời, xanh nước biển, xanh ve chai, xanh rêu, đen như hạt na, đen như mực, đen như than, đen như nhọ nồi, đen như cột nhà cháy, đen như mõm chó, trắng như bông, trắng như tuyết, trắng như vôi, trắng như sữa, trắng như ngà, trắng như trứng gà bóc, …

Văn chương truyền khẩu

Về văn chương, từ khi lập quốc đến hết đời Hùng Vương, trong sử sách không thấy chép Việt Nam có một thứ chữ riêng nào. Trong thời kỳ này, Việt Nam dùng văn chương truyền khẩu để diễn đạt tư tưởng. Văn chương truyền khẩu, hoặc văn học dân gian do giới bình dân không có tên tuổi vun trồng đời này qua đời khác, không biết rõ danh tính tác giả.

■ Văn xuôi truyền khẩu gồm những truyện cổ tích, truyện tiếu lâm.
■ Văn vần truyền khẩu gồm tục ngữ, thành ngữ, và ca dao còn lưu truyền cho đến bây giờ.