Câu đối là một dạng văn chương ngắn nhất, chỉ gồm có hai câu, mỗi câu ba hay bốn từ cũng đủ, câu được gọi là dài vào khoảng 15, 16 từ, số từ trong một câu không quy định là bao nhiêu. Có hai loại câu đối: câu đối tiếng Hán và câu đối bằng tiếng Việt Nam hay thường gọi là câu đối Nôm. Câu đối được dạy cho học trò còn ít tuổi và được dùng trong nhiều trường hợp như chúc mừng tân gia, chúc mừng thượng thọ, phúng điếu trong tang lễ, treo trong chỗ thờ cúng tôn nghiêm như nhà thờ, đình chùa … Câu đối còn được dùng trong sinh hoạt văn chương như tuyển lựa thi cử, chọn bạn kết thân, tranh tài cao thấp …
Theo luật đối, câu đối gồm hai vế, vế ra gọi là vế xướng, vế đáp gọi là vế đối, do đó thường gọi là đôi câu đối. Số từ trong mỗi vế không nhất định, tùy ở người ra vế xướng. Luật chỉ cần đối thanh, đối ý và cùng một tự loại.
Theo luật đối, câu đối gồm hai vế, vế ra gọi là vế xướng, vế đáp gọi là vế đối, do đó thường gọi là đôi câu đối. Số từ trong mỗi vế không nhất định, tùy ở người ra vế xướng. Luật chỉ cần đối thanh, đối ý và cùng một tự loại.
· Đối thanh là bằng trắc đối nhau, bằng gồm thanh không và thanh huyền, trắc gồm bốn thanh sắc, hỏi, ngã, và nặng.
· Đối ý là nội dung hai vế ứng với nhau, vế đối không được lạc đề.
· Cùng một tự loại là ưu điểm gọi là đối chỉnh, nếu không cùng một tự loại gọi là đối chưa chỉnh.
Hội đủ ba điều luật này gọi là đối vững. Tuy nhiên câu đối vững chưa gọi là câu đối hay. Để được gọi là hay, vế đối thường có những điều kiện riêng, càng phức tạp bao nhiêu thì vế đối càng khó tìm ra, và càng chứng tỏ tài văn chương lỗi lạc của người ứng đối.
Khoảng thập niên 1940-1950 tại các vùng quê học trò bắt đầu đi học vẫn còn học chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Học trò tập làm câu đối Nôm. Thí dụ:
- Ta ngồi đây đối với Nó đứng đó.
- Cụ già ho sù sụ đối với Con trẻ khóc hu hu.
- Thầy giáo yêu thương dạy bảo đối với Học trò kính cẩn vâng theo …
Kể từ thời Pháp thuộc, chương trình giáo dục chịu ảnh hưởng của tây phương, câu đối không còn được học trong học đường. Việc làm câu đối trở thành một việc ngoài học đường và thi cử. Tuy vậy người Việt Nam yêu tiếng mẹ đẻ vẫn thích làm câu đối nôm, từ giới khoa bảng đến giới bình dân.
No comments:
Post a Comment